trần thủ độ và trần hưng đạo
Thăng Long, Đại Việt. Trần Thủ Độ (chữ Hán: 陳守度, 1194 - 1264), cũng gọi Trung Vũ đại vương (忠武大王), là một nhà chính trị Đại Việt thời cuối Lý đầu Trần. Ông đóng vai trò quan trọng trong các sự kiện lật đổ nhà Lý, lập nên nhà Trần, thu phục các thế lực người Man làm phản loạn và trong cuộc chiến kháng quân Nguyên lần thứ nhất.
EU vẫn bất đồng về việc áp giá trần khí đốt Thứ 6, 30/09/2022 | 14:00:00 [GMT +7] A A. áp thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các công ty năng lượng và mức giá trần đối với khí đốt bán buôn. Ấn Độ phóng tên lửa đạn đạo từ tàu ngầm tấn công chiến lược
HỘI NGỘ 50 NĂM CỰU HỌC SINH TRƯỜNG TRUNG HỌC BÙI THỊ XUÂN VÀ TRẦN HƯNG ĐẠO ĐÀ LẠT (1969 - 2019) - 1973 - 1975: Giáo sư Trần Phương Thu. Tổng giám thị: Giáo sư Lê Thị Minh Tâm. một số ngỗ nghịch, quậy phá bạn bè và chọc ghẹo thầy, cô nhưng dễ thương và lễ độ
Vay Tiền Trả Góp Theo Tháng Chỉ Cần Cmnd. Ai cũng biết, sau khi thái tử Sảm của nhà Lý chạy nạn đến Hải Ấp, nương nhờ nhà Trần Lý. Suốt quãng thời gian dài họ Trần giúp đỡ nhà Lý dẹp phản loạn, ổn định lại tình hình chính trị thì hai nhân vật nổi bật nhất là Trần Tự Khánh và Tô Trung Từ. Còn sau khi nhà Trần có được ngôi báu từ tay Lý Chiêu Hoàng, thì hai nhân vật lớn nhất và có quyền hành thực sự chính là Trần Thừa và Trần Thủ Độ. Chúng ta đều có một cách nhìn là Thủ Độ dàn xếp ép Huệ Tông nhường ngôi cho Chiêu Thánh, sau đó ép chết Huệ Tông, phối hôn của Chiêu Thánh với Trần Cảnh, rồi từ đó chuyển giao quyền lực sang cho nhà Trần. Song khi nhà Trần được ngôi báu thì người được lợi nhiều nhất là ai. Trần Cảnh lên ngôi khi còn nhỏ, Trần Thừa là cha nên được tôn làm Thượng Hoàng. Nhưng sách An nam tức sự của sứ giả nhà Nguyên ghi Thừa đã đoạt ngôi nhà Lý và dẫn thêm một bài minh trên một quả chuông ở Bạch hạc có ghi vua Thái Tông là đời vua thứ hai của nhà Trần, đó cũng là lý do Trần Cảnh được đặt hiệu là Thái Tông chứ không phải là Thái Tổ như các vua khai triều khác. Nói qua Trần Thừa thì ông là con cả của Trần Lý – nguyên tổ họ Trần, ông bắt đầu được nhắc đến qua các cuộc tranh đấu với các thế lực khác nhau sau cái chết của ông cậu Tô Trung Từ nhưng luôn không nổi bật như người em Thủ Độ của mình. Trần Thừa lúc trẻ được khắc họa là người trực tiếp tham gia vào tất cả các hành động của họ Trần, là một người có trí có dũng nơi sa trường, nhưng ông chấp nhận ngồi sau lưng người em của mình, để người em làm nhân vật chính còn mình từng bước, từng bước tạo dựng thế lực và chỗ đứng trong gia tộc. Từ những điều đó dần dần cho thấy vì sao Trần Cảnh là kẻ được chọn để nối ngôi và chưa chắc Trần Thủ Độ là “đạo diễn chính” của màn nhường ngôi đó, như cách nghĩ phổ biến lâu nay. Trần Thừa là người kín đáo, có lúc hành quân bên ngoài, nhưng chức vụ chính là Nội thị Phán thủ, kiểm soát việc kín trong cung điện. Trần Tự Khánh làm thái úy cả chục năm, nhà Lý vẫn còn. Thừa lên thay Khánh làm thái uý được có hơn một năm mà nhà Lý mất, nhà Trần lập. Phải chăng, màn kịch nhường ngôi đã được chuẩn bị từ trước bằng sự suy tính của Trần Thừa và sau cùng đẩy cái tiếng soán nghịch cho Trần Thủ Độ, còn mình ngồi sau màn trướng định việc của cả gia tộc? Cần nhớ, lúc đó Trần Thừa đang nắm chức Phụ quốc Thái úy còn Trần Thủ Độ mới chỉ là Điện tiền chỉ huy sứ. Nếu Trần Thừa không đồng ý, liệu Trần Thủ Độ có dám làm? Chúng ta không thể không nhớ đến lời Trần Thủ Độ về sau “Ta cũng chỉ là chó săn cho anh em nhà chúng mày thôi”. Như vậy, Trần Thủ Độ có thể coi là một Luca Brasi của gia tộc họ Trần – một tay sát thủ trung thành, ít học nhưng luôn liều mình sống chết cho gia tộc. Ông chủ thực sự của họ Trần phải là “bố già” Trần Thừa – kẻ đã dùng mọi kinh nghiệm sống qua những năm tháng thăng trầm của tuổi trẻ để bảo vệ gia tộc. Nguồn Comet Withouse Post Views 1,043
Đền Thờ Các Vua Trần-Thiên Trường-Thái Bình “Tháng Tám giỗ Cha, tháng Ba giỗ Mẹ” Thượng Phụ Trần Hưng ạo & Thái Sư Trần Thủ ộ Hai lời nói – hai nhân cách anh hùng. Năm 1257 quân Mông Cổ xâm lăng nước ta lần thứ I, Thái Sư TrầnThủ ộ lúc ấy đã ở tuổi 63 sinh 1194 mất 1264 và Trần Quốc Tuấn đang vừa đúng 29 tuổi được cử thống lĩnh binh mã lên miền Bắc chống cự. Cột trụ của nhà Trần và của đất nước lúc ấy là Thái Sư Trần Thủ ộ, ông đã nói với vua Trần một câu nói lịch sử “ầu Tôi Còn, xin Bệ hạ đừng lo” Năm 1284, hai mươi bẩy năm sau, Mông Cổ xâm lăng qui mô lần thứ II, lúc này Trần Hưng ạo đã 56 tuổi và Thái Sư Trần Thủ ộ đã mất, vua Trần Nhân Tôn phân vân giữa kẻ chiến người hòa, đến hỏi Trần Hưng ạo, và với tinh thần sát thát cương quyết, vị lão anh hùng có 26 năm kinh nghiệm điều binh khiển tướng này đã trả lời “Bệ hạ muốn hàng, xin hãy Chém ầu Tôi trước!” Hai lời nói lịch sử cách nhau một phần tư thế kỷ mang hai ý nghĩa khác nhau “ầu tôi còn…” rõ là lời của nhà chính trị, tự tin vào “cái đầu” của mình, đầu chưa rời thì hy vọng vẫn còn, mưu sự vẫn có cơ thành, mưu trí vẫn đủ mãnh lực để đuổi giặc. Trần Thủ ộ nổi tiếng là người cương quyết, năm 1224 mới vào cung ít lâu làm iện tiền chỉ huy sứ cho Lý Huệ Tôn, ông đã nắm ngay mọi giềng mối và sửa soạn kế hoạch dựng Trần diệt Lý, chỉ một năm sau, 1225, ông đã đạt mục đích và trở thành Thái Sư triều Trần. Sau khi “nhổ cỏ nhổ cho tận rễ” diệt tới tận cùng nhà Lý 2, ông một tay cáng đáng quốc sự, chỉnh đốn triều chính, luyện binh tuyển tướng, quân số thời đó lên tới 200,000 người 3, nên khi Mông Cổ sang ta đã có sẵn quân lực để đánh. Trần Hưng ạo kém Trần Thủ ộ 34 tuổi, trong gia tộc Ngài đứng vào hàng cháu của Trần Thủ ộ. Sử gia thường cho Ngài giữ trọn chữ Trung với Vua với Nước nên đã không theo lời cha là An Sinh Vương Trần Liễu để đoạt lấy cơ nghiệp vì mối hận của Trần Liễu đã bị Trần Thủ ộ ép vợ Trần Liễu đang mang thai lấy Trần Thái Tông Trần Cảnh là anh em với Trần Liễu. Ngoài chữ Trung, còn phải kể tới tương quan giữa Trần Thủ ộ và Trần Hưng ạo trong tinh thần gia tộc, Trần Hưng ạo phải kính nể Trần Thủ ộ, trong tinh thần ái quốc Trần Hưng ạo không thể phủ nhận lòng ái quốc chân chính của Trần Thủ ộ. Thật vậy, Trần Thủ ộ có thủ đoạn tàn nhẫn với nhà Lý và chỉ với nhà Lý mà thôi, còn việc đảo ngược luân thường đạo lý ép người này lấy người kia cũng chỉ xảy ra trong nội bộ họ Trần với dụng ý xây dựng cơ đồ vững chãi cho họ Trần 4. Truyện kể lại cho ta một vài nét khác về nhân cách Trần Thủ ộ một tên lính canh dinh vô tình chặn cửa không cho bà Thái Sư vào dinh, Trần Thủ ộ nghe chuyện không trách người lính canh vô lễ mà còn khen là làm đúng lệnh. Trong triều có kẻ tâu vua là quan Thái Sư chuyên quyền, đi kiệu qua Hoàng Cung không xuống kiệu, Trần Thủ ộ nghe, khen phải, và từ đó đi qua Hoàng Cung ông đều xuống kiệu. Một người văn võ toàn tài như Trần Hưng ạo chắc đã cân nhắc những điều đó và đã quán triệt rộng rãi chữ Trung với chữ Hiếu, nên Ngài đã tận trung báo quốc, giữ phẩm cách hoàn toàn của một binh lược gia, nên câu nói lịch sử “Nếu Bệ hạ muốn hàng xin chém đầu tôi trước” phản ảnh cái hào khí của một vị Nguyên Soái, ý chí hùng mạnh dứt khoát như đường gươm. Ở Trần Hưng ạo, trắng, đen, chiến, hòa, phải trái rõ ràng minh bạch tựa mặt trời mặt trăng. Một bậc đại trượng phu như vậy hoàn toàn phù hợp với đạo lý ông phương, và như Quan Vân Trường của Tàu, Ngài đã được thờ phụng ngang hàng Thần Thánh, ngay khi còn sống đã được thờ ở sinh từ và khi chết 1300 Ngài trở thành vị Thần oai linh. Bình dân tin rằng Ngài trừ được yêu quỷ ma quái và nếu Chử ồng Tử là vị Chủ ạo Tiên, thì ức Thánh Trần trở thành vị Thần của ạo Nội, là nguyên lý Cha, bên cạnh nguyên lý Mẹ Chúa Liễu Hạnh, là hai nguyên lý hòa hợp Trời ất của tín ngưỡng bình dân Việt-Nam từ 700 năm nay. Tháng Tám giỗ Cha, tháng Ba giỗ Mẹ nhắc nhở ta công đức của đấng Cha Mẹ độ trì dân tộc vậy. Những yếu tố làm thăng hoa Việt sử đời Trần. ược thừa hưởng 216 năm kiến quốc của chín đời vua Lý, nhà Trần đã tiếp tục kiến quốc, cứu quốc và phát triển quốc gia tới đỉnh thăng hoa lịch sử. Không phải tự nhiên “Trời cho” mà hai đời Lý Trần này sinh vô kể lương tướng tôi hiền như vậy. Suốt 400 năm hai đời Lý Trần đã thành công vì giữ được ba cơ sở tinh thần dân tộc sau đây sở tinh thần dân bản Hùng Vương. Tuy bị Tàn đô hộ gần ngàn năm, tinh thần dân bản Văn Lang vẫn kiên thủ ở làng xã và tới Lý, Trần tinh thần này lại có dịp vươn lên. Các vua quan thời Lý, Trần rất gần gũi với dân, vua Lý lấy áo đắp cho người già yếu, vua Trần cùng hoàng thích “gá chân nhau nằm ngủ”, tướng sĩ coi nhau như cha con anh em đặc biệt là Phạm Ngũ Lão, lúc quốc biến thì Vua cẩn trọng hội ý bô lão toàn quốc trọng lễ, lúc tuyển tướng chọn quân thì dựa trên đức độ hiền tài trọng hiền nên những người áo vải dân đen như Phạm Ngũ Lão ngồi đan sọt, Trần Khánh Dư bán than, Nguyễn Khoái, Yết Kiêu, Dã Tượng… đều có dịp lập công với nước. Tinh thần dân bản này đã huy động được toàn dân từ làng xóm thôn quê, từ tận “đáy” dân tộc, nên Lý Thường Kiệt mới phá Tống Bình Chiêm, Hưng ạo mới ba lần đại phá Mông Cổ, bằng tự lực tự cường không có ngoại bang nào trợ giúp đằng sau. 2-Cơ sở giáo dục văn ôn vũ luyện Cái học của đời Lý Trần là đạo học làm người quân bình văn và võ, không chuộng hư văn khoa bảng, nên đời Lý mới xuất ra những bậc văn võ toàn tài như Lý Thường Kiệt, Tô Hiến Thành, Lý ạo Thành… đời Trần như Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão… Các vua đời Lý, Trần là người chịu học đạo thánh hiền và dũng lược, lúc quốc sự đều thân chính đi đẹp giặc, vào sinh ra tử với quan quân, chứ không ngồi hưởng ngai vàng ngâm hoa vịnh nguyệt như các đời sau. Truyền thống văn ôn vũ luyện đúng là truyền thống giáo dục thích hợp với xã hội Việt-Nam, luôn luôn tao loạn và toàn dân phải thường trực phòng vệ tổ quốc. Truyền thống này, đi song song với bao chiến công hiển hách, hiển nhiên là cơ sở giáo dục đúng nhất cho con người Việt-Nam. Thời loạn, nó cung ứng cho dân tộc những chiến sĩ thao lược, thời bình nó hun đúc tinh thần thượng võ, ngay thẳng và quả cảm, có thể ngăn ngừa được kẻ gian ác độc tài hại dân hại nước. Một xã hội trọng văn, một lớp sĩ “trói gà không chặt”, khó chống được giặc trong thời loạn, khó cản được tà trong thời bình”. Trần Quốc Tuấn học ở chùa từ năm lên 6 tuổi và được rèn luyện chẳng khác chi một hiệp sĩ samurai thời trung cổ Nhật Bản. Tiếc thay truyền thống giáo dục cao đẹp này từ thế kỷ 15 trở đi sau Nguyễn Trãi bắt đầu bị khoa cử hư văn làm lu mờ dần bằng tiêu chuẩn giáo dục “Tiên học lễ hậu học văn”. sở tinh thần dung hóa khai phóng. Nhà Lý đã đủ thế lực để xác định với phương Bắc. “Nam Quốc sơn hà Nam đế cư” Lý Thường Kiệt thì nhà Trần cũng thừa khả năng để huy động toàn quốc vào đại cuộc. “Thái bình tu nỗ lực Vạn cổ thử giang san” Trần Quang Khải “Tu nỗ lực” ở đây là công trình tổng hợp văn hóa tư tưởng ại Việt bắt nguồn từ truyền thống dân bản nhân chủ Văn Lang, trọng hiền trọng lễ từ hơn 2000 năm, với Tam giáo Phật, Nho, Lão đã đã hiện diện được 1000 năm trên đất nước tính đến thế kỷ 12-13. Bốn trăm năm thịnh trị Lý, Trần đã nhào nặn đúc kết một nền văn hóa bền vững, nằm trong đại khối văn hóa ông phương nhưng vẫn mang sắc thái đặc biệt dân tộc. Phật giáo được xiển dương theo hướng “Phật tại tâm” của Thiền môn Vạn Hạnh, Trúc Lâm, Nho giáo được phát huy theo tinh thần “cùng lý chính tâm” của Chu Văn An, Lão giáo phối hợp với nội đạo Thần Tiên và cùng với Phật, Nho, bổ túc cho đạo sống quân bình xuất xử, tình và lý, thiên nhiên và tâm linh. Nhà Trần đã kết tạo được một “cốt cách” văn hiến, một bản lãnh trí thức cho kẻ sĩ Việt, bền chặt đến nỗi trải bao thăng trầm thử thách, nó vẫn tiềm tàng trong một Nguyễn Trường Tộ theo mới mà không bỏ gốc, trong một Phan Chu Trinh sâu rễ bền gốc để thâu hóa tân trào, một Nguyễn Thái Học “không thành công thì thành nhân” phản ảnh rõ rệt bản lãnh truyền thống ại Việt mà nhà Trần đã lưu lại. CHÚ THÍCH 1 Năm 1225 khi lập Trần Cảnh lên ngôi Trần Thái Tông, Thái Sư Trần Thủ ộ lúc ấy đã ở tuổi 31, và nhà vua mới có 8 tuổi, nên mọi việc chính sự đều một tay Trần Thủ ộ lo liệu. 2 Tuy vậy vẫn có người họ Lý trốn thoát, như Bàng Bá Lân vốn dòng dõi họ Lý, Tiến Sĩ Nguyễn Tư Giản đời Nguyễn, nhà văn Nguyễn Triệu Luật… đều là dòng dõi họ Lý. 3 Theo ước lượng, dân số Việt-Nam thời Trần chỉ độ ba triệu người. 4 Nhà Trần dùng khoa Tử Vi vào quốc sự nhân dụng, có thể vì thế Trần Cảnh 8 tuổi được tuyển lựa lên ngôi, vợ Trần Liễu có mang được đưa vào làm Hoàng Hậu… Môn phái Tử Vi đời Trần còn truyền tới nay.
Trần Quốc Tuấn Trần Hưng Đạo là anh hùng dân tộc, nhà văn hóa vĩ đại trong lịch sử Việt Nam. Làm tướng, ông biết dẹp bỏ "thù nhà" dốc lòng báo đền "nợ nước" góp công lớn ba lần đánh bại quân Nguyên. Ông còn là tác giả của hai bộ binh thư và đặc biệt bài "Hịch tướng sĩ" nổi tiếng còn lưu truyền đến ngày nay. Sau khi ông mất, vua phong ông tước Hưng Đạo đại vương. Nhân dân lập đền thờ ông ở khắp nơi trên mọi miền đất đang xem Cuộc đời của trần hưng đạo 1. Tiểu SửSinh năm 1228, Trần Quốc Tuấn ra đời khi họ Trần vừa thay thế nhà Lý làm vua trong một đất nước đói kém, loạn ly. Trần Thủ Độ, một tôn thất tài giỏi đã xếp đặt bày mưu giữ cho thế nước chông chênh thành bền vững. Bấy giờ Trần Cảnh còn nhỏ mới 11 tuổi, vợ là Lý Chiêu Hoàng, vị vua cuối cùng của dòng họ Lý. Vì nhường ngôi cho chồng nên trăm họ và tôn thất nhà Lý dị nghị nhà Trần cướp ngôi. Trần Thủ Độ rất lo lắng. Bấy giờ Trần Liễu, anh ruột vua Trần Cảnh lấy công chúa Thuận Thiên, chị gái Chiêu Hoàng đang có mang. Trần Thủ Độ ép Liễu nhường vợ cho Cảnh để chắc có một đứa con cho Cảnh. Liễu nổi loạn. Thủ Độ dẹp tan nhưng tha chết cho Liễu. Song điều này không dẹp nổi lòng thù hận của Liễu. Vì thế Liễu kén thầy giỏi dạy cho con trai mình thành bậc văn võ toàn tài, ký thác vào con mối thù sâu nặng. Người con trai ấy chính là Trần Quốc hùng dân tộc - Hưng Đạo đại vương Trần Quốc TuấnThuở nhỏ, có người đã phải khen Quốc Tuấn là bậc kỳ tài. Khi lớn lên, Trần Quốc Tuấn càng tỏ ra thông minh xuất chúng, thông kim bác cổ, văn võ song toàn. Trần Liễu thấy con như vậy mừng lắm, những mong Quốc Tuấn có thể rửa nhục cho mình. Song, cuộc đời Trần Quốc Tuấn trải qua một lần gia biến, ba lần quốc nạn và ông đã tỏ ra là một bậc hiền tài. Thù nhà ông không đặt lên trên quyền lợi dân nước, xã tắc. Ông đã biết dẹp thù riêng, vun trồng cho mối đoàn kết giữa tông tộc họ Trần khiến cho nó trở thành cội rễ của đại thắng. Bấy giờ quân Nguyên sang xâm chiếm Việt Nam. Trần Quốc Tuấn đã giao hảo hòa hiếu với Trần Quang Khải. Hai người là hai đầu mối của hai chi trong họ Trần, đồng thời một người là con Trần Liễu, một người là con Trần Cảnh, hai anh em đối đầu của thế hệ trước. Sự hòa hợp của hai người chính là sự thống nhất ý chí của toàn bộ vương triều Trần, đảm bảo đánh thắng quân Nguyên hung kể rằng thời ấy tại bến Đông, ông chủ động mời Thái sư Trần Quang Khải sang thuyền mình trò chuyện, chơi cờ và sai nấu nước thơm tự mình tắm rửa cho Quang Khải... Rồi một lần khác, ông đem việc xích mích trong dòng họ dò ý các con, Trần Quốc Tảng có ý khích ông cướp ngôi vua của chi thứ, ông nổi giận định rút gươm toan chém chết Quốc Tảng. Do các con và những người tâm phúc xúm vào van xin, ông bớt giận dừng gươm nhưng bảo rằng Từ nay cho đến khi ta nhắm mắt, ta sẽ không nhìn mặt thằng nghịch tử, phản thầy này nữa! Trong chiến tranh, ông luôn hộ giá bên vua, tay chỉ cầm cây gậy bịt sắt. Thế mà vẫn có lời dị nghị, sợ ông sát vua. Ông bèn bỏ luôn phần gậy bịt sắt, chỉ chống gậy không khi gần cận nhà vua. Và sự nghi kỵ cũng chấm dứt. Giỏi tâm lý, chú ý từng việc nhỏ để tránh hiềm nghi, yên lòng quan để yên lòng dân, đoàn kết mọi người vì nghĩa lớn dân tộc. Một tấm lòng trung trinh son sắt vì vua, vì giao quyền tiết chế cho Trần Quốc Tuấn. Ông biết dùng người tài như các anh hùng Trương Hán Siêu, Phạm Ngũ Lão, Yết Kiêu, Dã Tượng... đều từ cửa tướng của ông mà ra. Ông rất thương binh lính, và họ cũng rất tin yêu ông. Đội quân cha con ấy trở thành đội quân bách Quốc Tuấn là một bậc tướng "cột đá chống trời". Ông đã soạn hai bộ binh thư "Binh thư yếu lược", và "Vạn Kiếp tông bí truyền thư" để dạy bảo các tướng cách cầm quân đánh giặc. Trần Khánh Dư, một tướng giỏi cùng thời đã hết lời ca ngợi ông "... Lấy ngũ hành cảm ứng với nhau, cân nhắc cửu cung, không lẫn âm dương...". Biết dĩ đoản binh chế trường trận, có nghĩa là lấy ngắn chống dài. Khi giặc lộ rõ ý định gây hấn, Trần Quốc Tuấn truyền lệnh cho các tướng, răn dạy chỉ bảo lẽ thắng bại tiến lui. Bản Hịch tướng sĩ viết bằng giọng văn thống thiết hùng hồn, mang tầm tư tưởng của một bậc "đại bút".Trần Quốc Tuấn là một bậc tướng tài có đủ tài đức. Là tướng nhân, ông thương dân, thương quân, chỉ cho quân dân con đường sáng. Là tướng nghĩa, ông coi việc phải hơn điều lợi. Là tướng chí, ông biết lẽ đời sẽ dẫn đến đâu. Là tướng dũng, ông sẵn sàng xông pha vào nơi nguy hiểm để đánh giặc, lập công, cho nên trận Bạch Đằng oanh liệt nghìn đời là đại công của ông. Là tướng tín, ông bày tỏ trước cho quân lính biết theo ông thì sẽ được gì, trái lời ông thì sẽ bị gì. Cho nên cả ba lần đánh giặc Nguyên Mông, Trần Quốc Tuấn đều lập công tháng trước khi mất, vua Anh Tông đến thăm lúc ông đang ốm, có hỏiNếu chẳng may ông mất đi, giặc phương Bắc lại sang xâm lấn thì kế sách làm sao?Ông đã trăn trối những lời cuối cùng, thật thấm thía và sâu sắc cho mọi thời đại dựng nước và giữ nướcThời bình phải khoan thư sức dân để làm kế sâu gốc bền rễ, đó là thượng sách giữ thu tháng Tám, ngày 20, năm Canh Tý, Hưng Long thứ 8 1300 "Bình Bắc đại nguyên soái" Hưng Đạo đại vương qua đời. Theo lời dặn lại, thi hài ông được hỏa táng thu vào bình đồng và chôn trong vườn An Lạc, giữa cánh rừng An Sinh miền Đông Bắc, không xây lăng mộ, đất san phẳng, trồng cây như cũ...Khi ông mất 1300, vua phong ông tước Hưng Đạo đại vương. Triều đình lập đền thờ ông tại Vạn Kiếp, Chí Linh, ấp phong của ông thuở sinh thời. Công lao sự nghiệp của ông khó kể hết . Vua coi như bậc trượng phu, trăm họ kính trọng gọi ông là Hưng Đạo đại Hưng Đạo là một anh hùng dân tộc, một danh nhân văn hóa Việt Vị anh hùng được nhân dân phong thánhDân gian có câu "Tháng Tám giỗ Cha, tháng Ba giỗ Mẹ" là để nói về hai lễ hội lớn về hai vị thánh Đức thánh Trần Hưng Đạo và Đức thánh Mẫu Liễu Kiếp BạcĐền Kiếp Bạc là nơi thờ Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn thuộc xã Hưng Đạo, huyện Chí Linh. Lễ hội được tổ chức vào âm lịch hàng năm. Khu di tích có Tam Quan Linh Môn, Thành các, Tiền tế, Hậu cung, núi Nam Tào, núi Bắc Đẩu, núi Dược Sơn... in đậm dấu ấn về một thời lịch sử oai hùng "Vạn Kiếp núi lồng hình kiếm dựng. Lục Đầu vang dội tiếng quân reo".Đất nước thanh bình Trần Hưng Đạo vẫn sống ở Kiếp Bạc. Ngày năm Canh Tý nhằm Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn mất tại tư dinh. Trước khi qua đời ông đă dặn lại vua Trần "Khoan thư sức dân là kế sâu gốc, bền rễ, đó là thượng sách giữ nước". Sau khi ông mất, triều đình phong tặng ông là Thái sư Thượng phụ Quốc công tiết chế Nhân võ Hưng Đạo Đại Vương và cho lập đền thờ ông trên nền Vương phủ gọi là đền Kiếp Bạc. Nhân dân Việt Nam suy tôn gọi ông là Đức Thánh Trần, được công nhận là một trong mười vị tướng tài của thế mùa thu ở Côn Sơn - Kiếp Bạc là kỳ lễ hội chính kỷ niệm ngày mất của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, đồng thời người đi lễ cũng đến Côn Sơn thắp hương tưởng niệm anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi tạo thành sự hợp nhất giữa hai di tích trong kỳ lễ "giỗ trận" Bạch ĐằngỞ xã Yên Giang, Yên Hưng, Hà Nam có đền Trần Hưng Đạo, là nơi thờ người anh hùng dân tộc với sự kiện chiến thắng Bạch Đằng vĩ đại năm 1288. Ngày nay đền Trần Hưng Đạo trở thành trung tâm lễ hội Bạch sử sách sáng ngày tức mồng 8 tháng 3 năm Mậu Tý chính tại nơi đây, bên sông Bạch Đằng, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đã lập nên chiến công chói ngời nhất lịch sử nước ta tiêu diệt và bắt sống hàng vạn tên xâm lược, hàng trăm chiến thuyền, bắt sống Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, đập tan ý đồ xâm lược của quân Nguyên Mông. Ghi nhớ chiến công, tưởng nhớ người anh hùng Trần Hưng Đạo, dân làng An Hưng nay là Yên Giang lập đền thờ Ngài bên dòng Bạch Hưng Đạo sống là người, thác là thánh. Trong đền này còn giữ được nhiều sắc phong của các vua nhà Nguyễn như Tự Đức, Đồng Khánh, Duy Tân phong Trần Hưng Đạo làm Thượng đẳng thần. Các đạo sắc đều ca ngợi chiến công, oai linh, đức độ giúp dân giúp nước của Trần Hưng Đạo. Sắc của vua Tự Đức năm thứ 6 1854 có đoạn "Trần Hưng Đạo Đại Vương có công giúp nước, cứu dân, oai linh lẫm liệt, cảm ứng cả trời đất, được nhân dân sùng bái"...Bên cạnh đền Trần Hưng Đạo là miếu Vua Bà, tương truyền có từ thời Trần. Người dân lập miếu để thờ bà hàng nước đã cho biết giờ thủy triều lên xuống để danh tướng nhà Trần liệu kế đánh giặc. Thú vị là đền thờ của một bà hàng nước lại được người dân suy tôn là Vua Bà và được đặt bên cạnh bậc vương gia Trần Hưng Đạo được suy tôn là Thánh!Hàng năm đến ngày lễ hội của đền Trần, nhân dân trong vùng và các nơi lại kéo về dự hội, thắp hương tưởng nhớ công ơn của Trần Hưng Đạo mà dân gian từ lâu đã tôn kính gọi là Đức Thánh Trần. Ngày hội chính của đền là mồng 8 tháng 3 âm lịch, là ngày diễn ra chiến thắng Bạch Đằng năm xưa, người dân Yên Hưng vẫn gọi đây là ngày "giỗ trận". Ngày "giỗ trận" có cả phần lễ và phần hội đu quay, chọi gà, đánh vật, cờ người, cờ tướng... và, tất nhiên, không thể thiếu môn đua thuyền trên sông Bạch Đằng. Dân Hà Nam, từ già đến trẻ nô nức đi xem thêm Cách Tìm Nghiệm Là Gì Toán 7 Bài 9, Cách Tìm Nghiệm Của Đa Thức Một Biến Và Ví DụDi tích đền Trần Hưng Đạo - miếu Vua Bà đã được Bộ văn hoá thông tin xếp hạng là di tích lịch sử theo quyết định số 100/HQĐ ngày
trần thủ độ và trần hưng đạo