trì tụng là gì
Công đức là bình đẳng, chân như, vô sai biệt. Hồi hướng công đức ( hay Pridana) mang ý nghĩa là bố thí (dana) khắp cả (pari), tức bố thí công đức của mình dành cho tất cả chúng sinh. Trong quyển Đại Thừa Nghĩa Chương, hồi hướng công đức lại mang 3 ý nghĩa khác nhau
Thần chú là những câu nói mang hàm nghĩa sâu sắc, bí ẩn đã được cô đọng lại. Trì tụng thần chú giúp chúng ta có sự bình an, tự tại, hạnh phúc trong tâm hồn. Bên cạnh đó, một số câu thần chút còn giúp con người xóa bỏ lòng tham, sân, si, khai mở sự từ bi để tăng trưởng phước báu.
Hiến pháp được theo sau bởi vì Luật hình sự (1906), Luật tố tụng hình sự, Luật tmùi hương mại và nhiệm vụ cùng Luật quản lý phương tiện sư (1910).. Bạn đang xem: Tố tụng tiếng anh là gì The constitution was followed by Plltb3d.comal Law (1906), Plltb3d.comal Procedure Law, Commerce và Obligations Law & the Lawyer"s Managemlltb3d.comt
Vay Tiền Trả Góp Theo Tháng Chỉ Cần Cmnd. HƯỚNG DẪN "TỰ HỌC TỤNG NIỆM VÀ GIẢI NGHĨA PĀLI 11 BÀI KINH HỘ TRÌ - PARITTA SUTTA"Cùng Tam Qui và Ngũ Giới mọi Phật tử phải học thuộc lòng bằng tiếng Pali Chịu khó học từ từ mỗi ngày một vài câu, và áp dụng thực hành vào đời sống, sau một vài năm sẽ thấy khác hẳn so với những người không học đều, thực hành đều chánh kiến, tín tâm, chánh tinh tấn, chánh niệm tăng trưởng, sẽ bớt dần đi tham sân si và sẽ an nhiên tự tại dần từng bước trước vui buồn của cuộc trọng cốt tủy của thành công là đều đặn học tập và thực hành hàng ngày, chứ không chỉ chờ tới khóa học, khóa cho oai đức Tam Bảo hộ trì cho đạo hữu cùng tất cả mọi người trong gia đình luôn được khỏe mạnh, thành công, an vui, và hạnh phúc, luôn tinh tấn làm lành, lánh dữ, thanh lọc tâm, vun bồi phước thiện tạo duyên lành giúp sớm giác ngộ, giải thoát hoàn toàn và vĩnh viễn mọi khổ đau, phiền não, chấm dứt luân hồi sinh tử, đạt được hạnh phúc thật sự, tự do thật sự - Niết bàn. Trong tâm từ, Tỳ Khưu Viên Phúc Sumangala-🍀 11 Bài kinh Hộ Trì Parittapāli được lần lượt được đọc tụng bởi Thiền sư Chủ trì Thiền viện Tharmanakyaw Mahagandhayon Monastery Yangon Myanmar - Ngài Sayadaw U Dammikabhivamsa, và được phân tích từ ngữ và ý nghĩa của từng câu Pāli bởi Sumangala Bhikkhu Viên Phúc dựa theo tài liệu soạn dịch bởi Tỳ Khưu Đức Hiền, NXB Tôn giáo 2011 "Kinh Hộ Trì - Phân tích từ ngữ Pali"PDF - - BÀI HƯỚNG DẪN "TỰ HỌC TỤNG NIỆM VÀ GIẢI NGHĨA PĀLI" có tại các links dưới đây 🎯 YOUTUBE PLAYLIST AUDIO MP3 & YOUTUBE CHO TỪNG NGÀY❶ CHỦ NHẬT PARITTA- PARIKAMMA – BỐ CÁO KINH HỘ TRÌMAṄGALA SUTTA – KINH HẠNH PHÚCMP3 Sayadaw Tharmanaykyaw Câu 1 – 6 Câu 7 – 9 Câu 10 – 11 Câu 12 – 13 Câu 14 – 16 Câu 17 - 19 Câu 20 – 24 THỨ HAI RATANA SUTTA – KINH CHÂU BÁUMP3 Sayadaw Tharmanaykyaw Câu 25 Câu 26 – 29 Câu 30 – 32 Câu 33 – 35 Câu 36 – 39 Câu 40 – 45 THỨ BA METTA SUTTA – KINH TỪ BIMP3 Sayadaw Tharmanaykyaw Câu 46 – 49 Câu 50 – 53 Câu 54 – 57 THỨ TƯ KHANDHA SUTTA – KINH KHANDHA MORA SUTTA – KINH CON CÔNG VATTA SUTTA – KINH CHIM CÚTMP3 Sayadaw Tharmanaykyaw Câu 58 – 65 Câu 66 – 71 Câu 72 – 77 Câu 66 05-06 Mora-Vattasutta THỨ NĂM DHAJAGGA SUTTA – KINH NGỌN CỜMP3 Sayadaw Tharmanaykyaw Câu 78 – 81 Câu 82 – 86 Câu 87 – 96 Câu 97 – 101 THỨ SÁU ĀṬĀNĀṬIYA SUTTA – KINH ĀṬĀNĀṬIYAMP3 Sayadaw Tharmanaykyaw Câu 102 – 107 Câu 108 – 113 Câu 114 – 117 Câu 118 – 125 Câu 126 – 131 THỨ BẢY AṄGULIMĀLA SUTTA – KINH NGÀI AṄGULIMĀLA BOJJHAṄGA SUTTA – KINH GIÁC CHI PUBBAṆHA SUTTA – KINH BUỔI SÁNGMP3 YOUTUBE Sayadaw Tharmanaykyaw Câu 132 – 134 Câu 135 – 137 Câu 138 – 140 Câu 141 – 145 Câu 146 Câu 146 – 152 Câu 153 – 158 Câu 159 – 164 Bản tụng đọc Pali 11 bài kinh hộ trì paritta xem tại bên dưới bài viết này và tại link này khảo đọc Pali 11 bài kinh hộ trì parittaNgài Đại Trưởng Lão Thiền Sư Paauk Sayadaw Đại Trưởng Lão Thiền Sư Sīlānanda Sayadaw 🍀 MƯỜI MỘT MAHA PARITTA SUTTA-Những bài kệ bảo hộ của Đạo Phật trong phương thức truyền miệng được gọi là Gatha Kệ hay Mantra chú, sự tụng niệm mantra được tin rằng sẽ đem lại kết quả mong muốn nhờ phát triển sự bảo hộ hiệu quả hoặc bằng cách thúc bách sự trợ giúp của các thánh thần siêu Paritta hay Rakkhana là những bài nguyện nguyên thuỷ cầu sự thịnh vượng, an lành và hạnh phúc của tín đồ Phật giáo ở Miến Điện, nhưng dần dần các Paritta Gatha trở thành thần chú của Phật là một thuật ngữ kỹ thuật bắt nguồn từ gốc TA - RAKKHATTI có nghĩa là sự cứu hộ, bảo vệ hay canh chừng; với tiếp đầu ngữ PARI - toàn khắp SAMANTATO, có nghĩa từ mọi hướng. Do đó, các Paritta có thể được diễn giải là những chú bảo hộ của Phật giáo hoặc Mantra Raksha của Phật có nghĩa là lớn, cao, vĩ đại, hùng mạnh, và dồi dào. Do đó tuyển tập vĩ đại gồm những thần chú Phật giáo ở Miến Điện thường được gọi là MAHA PARITTA SUTTA Đại hộ trì kinh.Trong các loại Kinh bảo hộ, quan trọng nhất là tuyển tập mười một Hộ Trì Kinh Paritta Sutta. Những Paritta Sutta này được tụng niệm một mình hoặc tập thể nhiều người. Một số hoặc tất cả những Kinh sutta này được tụng niệm như một phần của những nguyện cầu thông thường của Phật tử, nhằm chống lại những hiểm nguy và tai hoạ, dù chúng tự nhiên hay siêu nhiên. Phòng tránh những biến cố không hay đang diễn ra và vô hiệu hoá các rủi ro từng xảy ra là hai mục đích chính của việc tụng niệm trong những dịp đặc điều quan trọng cần phải lưu ý là mỗi Paritta Sutta có một chức năng đặc trưng, mặc dù bất cứ paritta nào cũng có thể được tụng niệm như một biện pháp bảo hộ thông thường. Do đó, ví dụ như Angulimala paritta được tụng trong trường hợp sinh khó; Khandha paritta đề phòng việc rắn cắn và nhiễm độc; Vatta paritta nhằm dập tắt ngọn lửa hung dữ; Mora paritta nhằm giải thoát một người khỏi ngục tù; Bojjhanga paritta nhằm chữa trị các bệnh nhân bị bệnh nguy kịch vv..Tất cả mười một Paritta Sutta được quy định trong chương trình tu học Truyền thống Miến Điện và những học giả trẻ, những người mới nhập đạo, người mới tu và những người trợ lễ Kyaungtha, Pothudaw, Koyin và Upazin được rèn luyện để ghi nhớ chúng một cách trực tiếp từ nguyên bản Pali. Tất cả những bản văn này được chuyển dịch sang ngôn ngữ bản địa Miến Điện, và mỗi người Miến Điện trưởng thành được coi như đã hiểu tất cả hoặc một số Kinh này khi các nhà tu lớn tuổi tụng niệm chúng bằng tiếng Pali nhân danh những gia chủ trong các buổi lễ của làng. Những thực hành tôn giáo này vẫn còn hợp thời trong xã hội Phật giáo Miến Điện hiện Phật tử Miến Điện tỏ lòng tôn kính mười một Mahaparitta Sutta này y như họ tôn kính Tam Tạng Kinh Tipitaka Pali. Mặc dù sau này có nhiều sự dẫn giải và thêm thắt trong việc soạn thảo Paritta bởi những bậc hiền triết uyên bác thời xưa, tất cả những Sutta này đều chủ yếu được đặt nền trên những kinh Kinh Hạnh Phúc Mangala sutta đặt nền trên Tiểu bộ tập Khudda- kapatha và các bản văn Kinh tập Sutta- nipata trong Tiểu bộ kinh Khuddaka nikaya.⒉ Kinh Châu Báu Ratana sutta đặt nền trên Tiểu Bộ Tập Khudda- kapatha và bản văn Kinh Tập Sutta- nipata trong Tiểu bộ Kinh Từ Bi Metta sutta đặt nền trên Tiểu Bộ Tập và bản văn Kinh Tập trong Tiểu Bộ Kinh Ngũ Uẩn Khandha sutta được dựa trên Tiểu phẩm thuộc Luật Tạng Vinaya pitaka Culavagga, những bản văn Bổn sanh truyện Jataka và TăngChi Bộ Kinh Anguttaranikaya.⒌ Khổng Tước Kinh Mora sutta dựa trên Bổn sanh truyện trong Tiểu Bộ Luân Hồi Kinh Vatta sutta dựa trên Bổn sanh truyện và sở Hành Tạng Cariyapitaka trong Tiểu Bộ Kinh Ngọn Cờ Dhajagga sutta dựa trên Tương Ưng Bộ Kinh Samyutta nikaya, bản văn Tương Ưng Sakka Sakka Samyutha.⒏ Kinh Atanatiya sutta dựa trên bản văn Pathikavagga thuộc Trường Bộ Kinh Digha- nikaya- Pathikavagga và bản văn Kinh Pháp Cú trong Tiểu Bộ Angulimala sutta, Vô Não Kinh dựa trên bản văn Majjhimapannasa trong Trung Bộ Kinh Majjhima nikaya- Majjhimapannasa.10. Kinh Thất Giác Chi Bojjhanga sutta dựa trên bản Tương Ưng Kinh - Đại Phẩm Samyutha nikaya - Mahavagga Samyutta. buổi sáng tốt lành Pubbanha sutta dựa trên Tiểu Bộ Tập Khuddaka patha, bản văn kinh tập Sutta- nipata trong các bản Tiểu Bộ Kinh Khuddaka nikaya và Tăng Chi Bộ Kinh Anguttara nikaya.[Trích Cẩm Nang tụng niệm của Phật tử Miến Điện]- 🍀 NGHE VÀ TỤNG KINH HỘ TRÌ PARITTA NHƯ THẾ NÀO CHO ĐÚNG CÁCH ?-Kinh Hộ Trì Parittapāḷi là Kinh bảo vệ và mang lại những kết quả tốt đẹp. Điều quan trọng là những bài Kinh này được tụng đọc hay lắng nghe một cách đúng đắn. Có một vài điều kiện để thành tựu cả việc tụng đọc và lắng nghe nhằm mang lại những lợi ích của Kinh Paritta. Thật vậy, về người tụng đọc cần phải đầy đủ ba điều kiện và về người lắng nghe cũng có ba điều kiện sauI. Ba điều kiện cho người tụng đọc là1. Họ phải được học và tụng đọc những bài Kinh Hộ Trì Parittapāḷi này một cách chính xác và đầy đủ mà không bỏ Họ phải hiểu được ý nghĩa của các bài Kinh Hộ Trì Parittapāḷi khi được tụng Họ phải tụng đọc với tất cả trái tim đầy hoan hỷ và với từ Ba điều kiện cho người lắng nghe Kinh là1. Là người không phạm một trong năm trọng tội - Giết mẹ Mātughātaka; - Giết cha Pitughātaka; - Giết bậc A-la-hán Arahantaghātaka, - Làm chảy máu Phật Lohituppādaka. - Và chia rẽ Tăng chúng Saṅghabhedaka.2. Là người không có “Tà Kiến - Micchādiṭṭhi" như việc không tin Nghiệp Kamma và Nghiệp quả Kammavipāka.3. Là người lắng nghe những bài Kinh bằng sự tự tin ở kết quả từ việc nghe Kinh, thì sẽ tránh khỏi các sự nguy hiểm và mang lại kết quả khi những điều kiện này được đầy đủ, thì người này mới thành tựu những lợi ích của Kinh vậy, điều quan trọng là khi Kinh Paritta được tụng đọc và mọi người nên lắng nghe với niềm tin, sự kính trọng và bằng sự chú nữa, việc tụng Kinh Paritta được phát sinh 2 lợi ai tụng đọc như những người cho một cái gì đó; và những người lắng nghe giống như những người tiếp nhận một điều gì đó đã được họ không nhận lĩnh những gì đã được cho thì họ không nhận được gì. Nói rõ hơn, nếu người nào không lắng nghe việc tụng đọc, mặc cho những người khác tụng lên và người này làm các việc khác; thì họ chắc chắn không nhận những gì đã được cho, do vậy họ sẽ không thành tựu được từ những lợi ích của việc nghe kinh......“Này các Tỳ khưu, hãy học Hộ Kinh Āṭānāṭiya! Hãy học thuộc lòng Hộ Kinh Āṭānāṭiya! Hãy nắm giữ Hộ Kinh Āṭānāṭiya! Này các Tỳ khưu, liên quan đến lợi ích là Hộ Kinh Āṭānāṭiya cho các vị Tỳ khưu, các Tỳ khưu ni, các cận sự nam và các cận sự nữ được bảo vệ, được hộ trì, không có bị xâm hại, được sống an vui”.Majjhimanikāya, Pāthikavaggapāḷi, bài kinh số 9, trang Myanmar 173.From FB Chánh pháp Hà nội- 🍀 103. PHẢI CHĂNG TỤNG KINH PARITTA THẬT KHÔNG CÓ LỢI ÍCH? Mi Tiên Vấn Đáp Đức Thế Tôn có dạy rằng "Dù trong động thẳm hang sâu, trong những bảo điện kiên cố với tường sắt vây quanh, giữa hư không bao la, sâu thẳm, giữa đáy đại dương hoặc trong lòng muôn trượng của quả đất - chẳng có nơi nào thoát khỏi lưỡi hái của tử thần!". Điều ấy là chân lý chắc thật phải không đại đức?- Chẳng có lời nào của Đức Đại Giác là không hợp với chân lý, với sự thật!- Nếu là vậy thì tại sao Đức Tôn Sư lại nói rằng, người nào tụng kinh hộ trì an lành kinh Paritta thì sẽ thoát khỏi uy lực của tử thần? Rõ ràng là lời thuyết này đâm xóc lời thuyết kia? Rõ ràng là lời thuyết sau phá vỡ chân lý của lời thuyết trước? Và, chẳng lẽ nào Đức Đại Giác lại nói ra hai lời nghịch nghĩa như mâu với thuẫn, như nước với lửa, như sáng với tối như thế? Đại đức phải có bổn phận và trách nhiệm phá nghi cho người học Phật thời hậu lai và chống đỡ búa rìu của phường ngoại giáo nhiều môi lắm mép!- Dĩ nhiên là phải thế, tâu đại vương! Và dĩ nhiên là Đức Đại Giác chẳng bao giờ nói hai lời nghịch nghĩa! Sở dĩ có sự hiểu lầm là vì người ta chưa hiểu năng lực của kinh hộ trì an lành đó thôi!- Xin đại đức giảng cho nghe về năng lực Thưa vâng, đại vương, ngài nghĩ thế nào, ví như có một cái cây già cỗi đã nhiều năm, ruột bộng, bên trong hoàn toàn khô kiệt nhựa và mủ; nghĩa là cái cây ấy không còn sự sống, nó đã chết, đã chấm dứt tuổi thọ. Có người khởi lên vọng tưởng muốn cho cây được sống lại, được đâm chồi nẩy lộc; bèn tưới nước, thêm phân; ngày nào cũng siêng năng tưới tắm, bảo vệ, giữ gìn ... những mong cái cây ấy được sống lại! Đại vương nghĩ thế nào, với nỗ lực của người ấy, chăm chuyên tưới nước, săn sóc nó từ ngày này sang ngày nọ - cái cây chết khô kia có vì vậy mà nẩy tược, đâm chồi, mọc lá xanh tươi trở lại hay không?- Thưa, thật là việc làm vô ích của người ngu; cây đã chết rồi, đã chấm dứt tuổi thọ rồi thì chẳng có năng lực gì, nỗ lực nào làm cho sống lại được!- Cũng tương tự như thế đó, tau đại vương! Một người khi mà thân xác khô kiệt, tim đã ngừng đập, máu không còn chảy nữa, sự sống đã lìa khỏi thân xác, tuổi thọ đã cáo chung; thì dù tụng kinh với nhiều oai lực như kinh hộ trì an lành Paritta, tụng năm biến, ngàn biến, hay tụng cả bỏ ngủ quên ăn, không vì vậy mà người kia sống lại được, tâu đại vương! Khi mà tử thần đã khua lưỡi hái cướp đi sanh mạng của chúng sanh rồi thì chẳng còn uy lực nào chống đỡ hoặc ngăn cản được đội binh sấm sét và bất khả chiến bại của thần chết, tâu đại vương!Đức vua Mi-lan-đà mỉm cười- Thế là đại đức đã đồng ý với trẫm, là tụng kinh Paritta thật vô ích, kinh Paritta ấy chẳng thể nào ngăn cản uy lực của tử thần được!- Đúng thế, nhưng mà đại vương hãy nhẫn nại thêm một tí Thưa vâng,- Đại vương! Ví như có một bệnh nhân thọ bệnh trầm kha, cả lục phủ ngũ tạng đều nát bét, tim và mật đều không còn làm việc. Có một vị lương y đại tài với quyết tâm chữa trị cho bằng được, bao nhiêu thuốc thang, kinh nghiệm, phương dược bí truyền đều mang ra hết. Đại vương nghĩ thế nào, người kia có chút may nào sống lại chăng?- Bệnh nhân ấy chuẩn bị quan tài là vừa, thưa đại đức!- Đúng thế, khi sự sống đã rời khỏi thân, khi thọ mạng đã bước ra khỏi cửa - thì việc làm của vị lương y trứ danh kia chẳng khác việc làm của người điên! Lúc ấy, diêm chúa và tử thần ái ngại nhìn vị lương y rồi nói rằng "Sanh mạng của người kia đã ở trong tay chúng ta rồi, ngươi muốn tụng kinh Paritta để hộ trì an lành và thọ mạng cho y thì chẳng khác nào phỉ báng Đức Phật và phỉ báng cả kinh Paritta!".- Hay lắm! dí dỏm lắm! Thế là thêm một lần nữa, đại đức đã đồng ý với Là vậy mà không là vậy, tâu đại vương! Xin ngài hãy nhẫn nại cho một tí nữa!- Xin sẵn lòng!Nghỉ hơi một lát, đại đức Na-tiên nói tiếp- Đại vương, ví như người điền chủ kia có một đám ruộng xanh tốt, đến thời, hạt lúa vàng nặng trĩu đầy cành. Nhưng vì tâm tham, người điền chủ muốn năng suất lúa phải bội thu hơn nữa, nên ngày nào y cũng thêm nước, rải phân! Đại vương nghĩ thế nào, với việc làm của người điền chủ, có vì thế mà hạt lúa nảy sanh thêm được chăng?- Thật không Cũng dường thế ấy, đại vương! Cây lúa già hạt trĩu đầy cành, vàng óng, là báo hiệu cây lúa sắp chết. Con người khi mà thân xác đã già, thọ mạng sắp ngưng dứt thì dẫu có thêm nước thêm phân, tụng kinh Paritta thảy đều vô ích, thọ mạng của người ấy không thể kéo dài ra, phát triển thêm được Trẫm hoàn toàn đồng Trở lại với các trường hợp trên thử xem. Ví dụ là cái cây cằn cỗi do thiếu phân, thiếu nước; nghĩa là tuổi thọ chưa chấm dứt, sự sống hãy còn; nếu ta chăm bón và nước nôi đầy đủ thì cái cây kia chắc hẳn là phải xanh tươi, phát triển cành lá sum suê chứ, đại vương?- Đích Cũng vậy là một người sanh mạng chưa chấm dứt, sự sống vẫn còn, nhưng do tiều tụy héo mòn bởi phiền não, bởi nhiều sự tai hại, não hại mà ảnh hưởng đến thân và tâm. Nếu kẻ ấy không có đức tin, hoàn toàn đổ sụp tinh thần, hoàn toàn tuyệt vọng - thì tử thần có dễ dàng lê bánh xe của thần chết đến để nghiền nát sinh mệnh của người kia không, hở đại vương?- Chắc chắn là vậy rồi!- Nhưng trái lại, nếu người ấy có quy y, tinh thần được khởi động để có niềm tin nơi Tam bảo, tin vào oai lực kinh Paritta có thể ngăn ngừa được thần chết, nên không mỏi mệt tụng kinh Paritta - thì thần chết có làm được gì kẻ kia không, nếu thọ mạng và sự sống ông ta hãy còn?- Lúc ấy thì có thể thoát khỏi lưỡi hái của diêm Thế kinh Paritta lúc ấy có thật sự lợi ích không hở đại vương!- Thật sự có lợi ích!- Đại vương, thế là đến ngang đây, đại vương đã tự bác bỏ câu phát ngôn đầu tiên của mình rồi!Đức vua Mi-lan-đà suy nghĩ hồi lâu- Có thể có một chút gì đó khá đúng. Nhưng ngài có thể cho nhiều ví dụ nữa để trẫm tiếp tục suy gẫm xem?- Vâng! Nếu có người bệnh, bệnh không nặng lắm - nếu uống đúng thuốc, đúng liều lượng, biết kiêng cử thì bệnh sẽ lành chứ, đại vương?- Vâng,- Và khi ấy, thuốc ấy thật sự lợi ích chứ?- Vâng!- Một người khi có bệnh chút ít, tuổi thọ chưa chấm dứt, nếu người ấy có quy y Tam bảo, có đức tin vững chắc mà tụng kinh Paritta - thì có ngăn được tử thần không, đại vương?- Có thể được! Vì có lòng tin nên kinh Paritta sẽ phát sanh năng lực!- Thế là đại vương đã cùng chấp nhận quan điểm, là tụng kinh Paritta phát sanh năng lực rồi!- Vâng, trẫm chấp nhận! Thế thì kinh Paritta chỉ hộ trì được những người có đức tin, những người thọ mạng chưa chấm dứt mà thôi, phải thế?- Thật là chính xác, tâu đại vương! Cho nên kinh Paritta có nghĩa là "kinh hộ trì an lành"! Hộ trì nghĩa là bảo vệ, che chở! Bảo vệ và che chở những người có đức tin, những người còn thọ mạng, nên ngăn chặn được tử thần không cho đến sớm! Chứ không phải kinh Paritta có năng lực bảo vệ và che chở những người không có đức tin, những người thọ mạng đã chấm dứt, tâu đại vương!- Bây giờ thì trẫm hoàn toàn hiểu rồi!- Đại vương, quả thật vậy, những người có đức tin nơi Tam bảo, có đức tin vào năng lực kinh Paritta, tin về những đức lành của kinh Paritta; dốc lòng trì tụng kinh Paritta thì có thể tiêu trừ tất cả bệnh tật, tai ương, hoạn nạn; lại có công năng hộ trì an lành, ngăn ngừa được lưỡi hái của tử thần là điều chắc thật!- Đại đức có bằng cớ chăng?- Thưa, có. Tại thành Vesàli, đại đức Ànanda đã tụng kinh Paritta, cả đêm, trọn ba vòng thành; tất cả chư thiên trong nhiều cõi giới ta bà đều hoan hỷ, và sau đó tất cả sự kinh sợ như bệnh dịch, phi nhơn và sự đói khát của nhân dân trong thành Vesàli đều được tai qua nạn khỏi!- Trẫm cũng có đọc qua đoạn kinh ấy, sau đó, dường như có một trận mưa lớn nên nhân dân thoát khỏi nạn dịch hoành hành, nhờ mưa lớn nên mùa màng ruộng vườn tránh khỏi cái khô hạn! Hết dịch, hết đói cũng vì thế. Còn nhờ sao mà phi nhơn hết quấy phá nữa thì trẫm không Chính nhờ sự mát mẻ, an lành từ oai lực kinh Paritta nên các trạng thái tâm nóng nảy, hung dữ ... lắng dịu lại, tâu đại vương!- Rất là chí lý. Nhưng oai lực kinh Paritta còn diệu dụng nào kỳ lạ nữa chăng?- Vâng, có, tâu đại vương! Các vị Thánh Tăng, Cao Tăng thường truyền tụng rằng, nếu chuyên trì tụng kinh Paritta thì rắn độc phải lặng lẽ cúi đầu bỏ đi, không dám có ý định cắn mổ nữa. Kẻ trộm vừa giơ gậy muốn đánh, nghe kinh Paritta, phải dịu dàng bỏ thỏng tay xuống. Voi số mạch nổi cơn dục rất hung dữ, chạy đến muốn chà đạp người, nghe kinh Paritta, chúng sững lại, hiền lành ngoan ngoãn bỏ đi. Dùng lửa cháy cực mạnh đốt người - đang trì tụng kinh Paritta, lửa ấy không hại người ấy được. Dùng thuốc độc cũng không hại người tụng kinh Paritta . Thật lạ lùng làm sao!- Chưa đâu đại vương! Lại có trường hợp một con công quyết tâm tụng kinh Paritta để tự bảo vệ mình, có người thợ săn kiên trì đơm bẫy tới bao nhiêu năm cũng không bắt được. Đến khi con công ấy sầu muộn vì luyến ái một con công mái mà quên không tụng kinh Paritta, trong một ngày thôi thì đã bị dính bẫy người thợ Trẫm cũng có biết câu chuyện ấy, nói tóm lại là kinh Paritta có năng lực bảo vệ, hộ trì; nhưng trẫm thắc mắc là kinh ấy bảo vệ, hộ trì cho tất cả chúng sanh, tất cả mọi người hay cho một loài, một nhóm, một số người nào đó thôi?- Không thể hộ trì cho tất cả Tại sao thế, đại đức?- Đại vương, ngài nghĩ thế nào, vật thực có hộ trì cho sanh mạng tất cả chúng sanh chăng?- Thưa, có người hộ trì được, có người không Tại sao lại như vậy?- Ví như có người ăn vật thực quá độ, chất lửa trong bao tử không thể tiêu hóa được, sẽ đầy hơi tức bụng mà chết. Trường hợp ấy gọi là vật thực không thể hộ đức Na-tiên hỏi lại- Thế thì vật thực không thể hộ trì sanh mạng chúng sanh chỉ có hai nguyên nhânThứ nhất, thọ dụng vật thực quá hai, do chất lửa trong bao tử non nên không tiêu hóa vật thực Đúng như thế, thưa đại đức!- Vật thực vốn là món nuôi sanh mạng chúng sanh, nhưng bởi lẽ chúng sanh tham ăn tham uống quá độ, không biết thọ dụng chừng mực, vừa phải - nên nó trở thành thủ phạm giết hại sanh mạng chúng sanh, phải vậy không đại vương?- Thật là chính xác!- Kinh Paritta cũng như vật thực vậy, tâu đại vương! Kinh Paritta có người hộ trì được, có người không! Những người mà kinh Paritta không thể hộ trì được có ba lý do sauMột là, do năng lực nghiệp ác cản là, do nhiều phiền não phát sanh ở trong là, do người đọc tụng mà không có đức tin, không trì chí, không quyết tâm, chỉ tụng đọc vẹt nơi miệng!Đấy là ba cản trở lớn làm cho Paritta không thành tựu, tâu đại vương!- Như vậy là do chính lỗi lầm, sái quấy của người tụng đọc chứ không phải do kinh Paritta!- Đúng thế, tâu đại vương! Vật thực cũng như kinh, vốn không có tội Đại đức có khả năng cho ví dụ về điều ấy không?- Thưa được! Ví như có bà mẹ sanh đứa con một, biết bao công lao ẵm bồng, bú mớm, dọn phân, dọn nước tiểu. Lớn hơn chút nữa, lại phải áo quần, trang điểm, giáo dưỡng, dạy bảo nhiều bề. Tuy nhiên, giả dụ như sau này đứa con sinh hư, phạm tội với luật pháp. Người mẹ đau khổ, tìm cách đến công đường cố xin ân xá tội cho con! Tâu đại vương, nếu là đại vương thì đại vương có xá tội cho người con ấy không?- Người mẹ ấy cũng đáng thương, nhưng luật pháp nghiêm minh, nếu tha thứ cho một người thì nhân dân sẽ khinh nhờn mà phạm nhiều tội khác Vâng, như thế có nghĩa là ai làm nấy chịu, nghiệp ai kẻ ấy phải thọ quả báo! Người mẹ kia không thể xin tội cho con như thế nào - thì kinh Paritta cũng không thể hộ trì cho những người đã bị ba lý do nêu trên cản ngăn!Đến đây, đức vua hết lòng khen ngợi- Quả là biện tài. Quả là đại đức có khẩu ngôn thiện xảo. Cách trả lời với nhiều ví dụ, so sánh của ngài làm cho càng lúc chính đề càng thêm sáng tỏ. Hoài nghi đã chấm dứt. Mắt mờ đã được sáng. Lưới tà kiến đã được tháo gỡ. Trí tuệ của đại đức thật là siêu việt Không dám! Với những câu hỏi của đại vương, bần tăng cũng toát mồ hôi khi cố đưa ra những kiến giải non nớt, nông cạn, mong đại vương hỷ xả cho!Đức vua Mi-lan-đà mỉm cười- Không cần thiết phải khiêm tốn như thế, đại đức! Chúng ta đối thoại với nhau, ngay từ đầu đã xác định là cách đối thoại của bậc trí giả mà! Vậy khách sáo với nhau làm Na-tiên cũng mỉm cười ý
Chú Đại Bi 3 biến là gì? Đây chắc hẳn là câu hỏi của rất nhiều Phật tử khi vừa biết đến Chú Đại Bi. Trong bài viết này, sẽ giải nghĩa cho các bạn hiểu rõ hơn về khái niệm cũng như khi nào tụng niệm Chú Đại Bi 3 biến là phù hợp nhất. Mục lục1 Chú Đại Bi 3 biến là gì?2 Khi nào nên tụng Chú Đại Bi 3 biến3 Cách niệm Chú Đại Bi 3 Bắt đầu tụng niệm Chú Đại Bi 3 Tụng Chú Đại Bi 3 Phương pháp tụng Chú Đại Bi 3 Bài Kinh Chú Đại Bi 3 biến Chú Đại Bi thường được gọi là thần chú, linh chú đại bi. Bởi vì bất cứ ai tin và hành trì thần chú này một cách thành tâm thì bản thân người ấy đã có đủ Đại bi tâm. Thần chú này được phát xuất từ kim khẩu của Bồ tát Quán Thế Âm và được chư Phật ấn chứng. Chú Đại Bi còn có nhiều tên gọi khác như Vô ngại Đại Bi, Diên Thọ Đà la ni, Diệt ác thú Đà la ni, Mãn nguyện Đà la ni, Quảng đại Viên mãn, Cứu khổ Đà la ni… Bài Chú Đại Bi gồm có 84 câu. Mỗi biến là một lần đọc nguyên bài chú. Do đó, Chú Đại Bi 3 biến đồng nghĩa với việc bạn lặp đi lặp lại bài kinh trong 3 lần. Khi nào nên tụng Chú Đại Bi 3 biến Thường thì Chú Đại Bi 3 biến được các Phật tử tụng tại gia khi không có quá nhiều thời gian, điều kiện không cho phép. Vốn dĩ đọc bao nhiêu lần là tùy hỷ của mỗi người. Không quan trọng bạn đọc nhiều hay đọc ít, nhưng khi đọc phải có lòng thành, tin tưởng và phát tâm đại bi thì bạn mới có thể nhận được nhiều phước đức và công đức. Trẻ con niệm Chú Đại Bi rất tốt, phụ huynh nên dạy cho các cháu đến bàn Phật để cùng trì niệm, nhưng tốt nhất chỉ niệm Chú Đại Bi từ 1 – 3 biến. Ngoài giờ trì niệm Chú Đại Bi, đến giờ học thì để cho các cháu học tập và làm việc theo thời dụng biểu của gia đình. Mỗi lần làm một việc, không nên cho các cháu làm hai việc cùng một lúc sẽ khiến cháu dễ bị phân tâm, rối mù lên và không còn thông minh nữa! Lưu ý là không nên trì trú khi đang đi xe, làm việc nhà, vào cơ quan, vào nơi công cộng, vào toilet… vì như vậy là tạp niệm. Tốt hơn hết là lúc đó bạn chỉ cần “biết đến việc làm của mình” là “chánh niệm”. Cách niệm Chú Đại Bi 3 biến Phương pháp tụng niệm Chú Đại Bi đã được giải thích rõ trong Kinh, Phật tử chỉ cần y theo đó mà thực hành thì không sợ bị lạc lối, thiện căn ngày càng tăng trưởng. Bắt đầu tụng niệm Chú Đại Bi 3 biến Trước khi trì tụng Chú Đại Bi 3 biến, quý Phật tử phải vệ sinh thân thể sạch sẽ. Để tâm được yên tĩnh. Nếu quý Phật tử đang có suy nghĩ hận thù, yêu ghét, khó chịu, lo lắng hay suy nghĩ về ai đó hay điều gì đó thì trước trì tụng cũng nên thả lỏng cơ thể và xả bỏ hết những suy tư trong đầu. Phương pháp thả lỏng tâm hồn rất dễ, quý Phật tử chỉ cần chú ý đến chỗ đang căng thẳng, chỗ đang yêu ghét giận hờn… thả nó ra, buông nó ra thì tự nhiên tâm được thả lỏng. Chỉ khi đã thấy được chỗ tĩnh lặng trong tâm rồi thì hãy bắt đầu trì tụng. Tụng Chú Đại Bi 3 biến Phương pháp tụng Chú Đại Bi 3 biến Có nhiều cách niệm kinh Phật nói chung và tụng Chú Đại Bi nói riêng, mỗi người có thể tự chọn cho mình cách tụng phù hợp nhất. Có 3 phương pháp tụng chú cơ bản sau Đọc rõ thành tiếng một cách rõ ràng và từ tốn. Khi đọc phải chú tâm vào âm thanh của chú, đừng để cho những suy nghĩ trong đầu kịp khởi lên. Với cách đọc này thì âm thanh ở bên ngoài, dùng tai để nghe, dùng tâm để trụ. Đọc nhép miệng hoặc âm rất nhỏ chỉ người đọc nghe được. Với cách đọc này thì âm thanh của chú nằm ở trong đầu, dùng tâm để trụ nhưng hơi miệng thì thoát ra ngoài. Đọc thầm trong tâm. Đây là một cách đọc khó vì dễ bị tư tưởng xen tạp, dễ bị phân tâm. Quý Phật tử khi trì tụng Chú Đại Bi bằng cách này cần nên trụ vào âm thanh của chú trong đầu, tư tưởng khởi lên thì dùng tâm trụ trở lại âm thanh. Chỉ trụ nơi này, không duyên trụ nơi khác. Bài Kinh Chú Đại Bi 3 biến Nam-mô Đại-bi Hội-Thượng Phật Bồ-tát 3 lần Thiên thủ thiên nhãn, vô ngại Đại-bi tâm đà-la-ni. Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị da bà lô yết đế, thước bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da. Án tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa. Nam mô tất kiết lật đỏa, y mông a rị da, bà lô kiết đế, thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì hê rị, ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà già, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án, a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô, kiết mông độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê di hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô, ma ra hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ, bồ đề dạ, bồ đà dạ, bồ đà dạ, di đế rị dạ na ra cẩn trì địa rị sắc ni na, ba dạ ma na, ta bà ha. Tất đà dạ, ta bà ha. Ma ha tất đà dạ, ta bà ha. Tất đà du nghệ, thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra na ra, ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng yết ra dạ, ta bà ha. Nam mô hắc ra đát na, đa ra dạ da. Nam mô a rị da, bà lô yết đế, thước bàng ra dạ, ta bà ha. Án, tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ ta bà ha. 3 lần Nam mô Bổn sư Thích ca Mâu ni Phật. 3 lần Lặp lại bài chú thêm 2 lần. Trên đây là hướng dẫn cách trì tụng Chú Đại Bi 3 biến ngay tại nhà, mong quý Phật tử thực hành đúng chánh pháp, phát huy Phật tính để tích được lợi ích quảng đại và tìm tới sự an lạc trong tâm hồn. ——————— XEM NGAY CÁC VIDEO DƯỚI ĐÂY TRÊN YOUTUBE 50 Bài Học Chính Đức Phật Đích Thân Chỉ Dạy Sau Khi Giác Ngộ Giúp Bạn Giác Ngộ Giải Thoát Top 10 Nhà sư Việt Nam nổi tiếng nhất hiện nay Top 5 Ngôi chùa lớn nhất Việt Nam, số 1 là ngôi chùa lớn nhất thế giới Top 10 Vị đại lão hòa thượng có tầm ảnh hưởng lớn nhất tới nền phật giáo Việt Nam 5 Bằng chứng cho thấy Đức Phật đã đi trước khoa học hàng ngàn năm
I. BÀI HỌC 1. Định Nghĩa - Tụng kinh là đọc thành tiếng và có âm điệu hoặc đọc thầm những lời Phật dạy một cách thành kính. - Trì chú trì là nắm giữ, nhiếp niệm. Chú là lời bí mật của chư Phật. Trì chú là nhiếp tâm vào những bài thần chú. - Niệm Phật Niệm là nhớ nghĩ. Niệm Phật là nhớ nghĩ danh hiệu, hình ảnh và đức hạnh của chư Phật. 2. Ý nghĩa tụng kinh, trì chú, niệm Phật a. Ý nghĩa tụng kinh - Giúp cho chúng ta nhớ những lời Phật dạy để thực hành - Tụng kinh cho tâm hồn yên tịnh, trí tuệ mở bày. b. Ý nghĩa trì Chú - Chú có công năng phi thường, diệt trừ tất cả chướng nạn sâu dày. - Trì Chú giúp tâm trí được khai thông. c. Ý nghĩa niệm Phật - Niệm Phật để phá trừ tạp niệm, thanh tịnh tâm hồn, chuyển hóa nghiệp chướng. - Niệm Phật để cầu được vãng sanh. 3. Phương pháp tụng kinh, trì chú, niệm Phật - Tắm rửa, súc miệng sạch sẽ, mặc áo trang nghiêm, đến trước bàn thờ thắp hương đảnh lễ rồi nhất tâm tụng niệm. - Tụng kinh đọc lớn tiếng, rõ ràng từng câu từng chữ, để tâm vào lời kinh tiếng kệ. Có thể tụng chuyên nhất 1 bộ kinh, hoặc tụng hết bộ kinh này rồi mới qua bộ kinh khác. - Trì chú và niệm Phật đọc lớn hoặc đọc thầm, phải nhiếp tâm vào câu thần chú hay danh hiệu Phật. Nên trì chuyên nhất vào 1 câu thần chú, niệm chuyên nhất 1 danh hiệu Phật. - Tùy thời gian thích hợp mà ta tụng niệm theo thời khóa. Hoặc bất cứ ở đâu, lúc nào cũng có thể tụng kinh, trì chú, niệm Phật, cốt yếu tâm phải thanh tịnh, chuyên nhất. 4. Kết luận Tụng kinh, trì chú, niệm Phật là những phương pháp tu tập giúp cho 3 nghiệp được thanh tịnh. Khi thực hành phải nhiếp tâm, dứt bỏ mọi tạp niệm. Chỉ cần thực hành chuyên nhất một trong 3 phương pháp này, có thể giúp chúng ta giải thoát khổ đau ngay hiện tại. II. LỜI KHẤN NGUYỆN Kính lạy Phật! Giáo pháp của Ngài đã giúp con mở rộng trái tim để tiếp nhận tuệ giác, tình thương. Con nguyện tu tập, nhất tâm tụng niệm, chuyển hoá thân tâm và truyền trao nguồn giáo lý này đến với mọi người, cho hết thảy đều được an vui. III. CÂU HỎI CHIA SẺ 1. Tụng Kinh là gì? Ý nghĩa việc tụng kinh? 2. Trì chú là gì? Ý nghĩa việc trì chú? 3. Niệm Phật là gì? Ý nghĩa việc niệm Phật? 4. Cho biết phương pháp tụng kinh, trì chú, niệm Phật? 5. Kể tên một vài kinh, chú, danh hiệu Phật mà chúng ta thường tụng niệm? IV. SINH HOẠT 1. Bài hát NIỆM PHẬT DI ĐÀ 2. Hương vị cuộc sống NHỮNG HẠT ĐẬU BIẾT NHẢY Tác giả Lâm Thanh Huyền Tại biên giới của tỉnh Tây Khương sát với Tây Tạng, có một bà lão sống cô độc. Chồng và đứa con trai duy nhất của bà đã qua đời. Bà sống nhờ một thửa đất nhỏ trồng những hạt ngũ cốc. Vì cuộc đời đã trải qua nhiều gian truân từ nhỏ, bà lão cảm thấy nghiệp chướng trong người rất nặng, nên đã cố công tìm hỏi những người chung quanh phương pháp chuộc tội để cầu xin cho tâm hồn được bình yên. Cuối cùng thì bà được một người hành hương tốt bụng truyền cho một câu thần chú của Quán Thế Âm Bồ Tát. Câu thần chú gồm có sáu chữ Án Ma Ni Bát Di Hồng được gọi là Lục Tự Đại Minh Chú, có thể dùng để giải trừ những nghiệp chướng. Tội nghiệp cho bà già thôn dã đã dốt nát lại không biết chữ, trên đường về nhà bà lẩm bẩm cố học thuộc lòng, nhưng đã nhớ lôn cách phát Âm trở thành Án Ma Ni Bát Di Xanh. Để khích lệ cho việc đọc câu Kinh sám hối này bà bày ra hai cái chén, một cái chén không, còn một cái thì để đầy những hạt đậu nành. Mỗi khi đọc xong một câu thần chú, bà nhặt một hạt đậu từ trong chén đầy bỏ sang cái chén không, đến khi cái chén không đã chứa đầy đậu thì bà làm ngược trở lại. Bà lão đã không ngừng nghỉ, thành tâm tụng niệm suốt 30 năm. Lòng thành kính của bà đã ứng hiện cho nên sau này những hạt đậu không còn cần đến bàn tay của bà nhặt lấy, cứ một câu thần chú vừa được phát Âm ra thì một hạt đậu tự động nhảy sang cái chén bên cạnh. Bà lão thấy những hạt đậu tự động nhảy nhót, cộng hưởng với Âm điệu của câu thần chú thì biết rằng sự tu hành đã đúng đường và giai đoạn sám hối sắp sữa chấm dứt cho nên bà càng phấn khởi tụng niệm hăng say hơn. Hôm nọ có một vị Cao tăng từ Tây Tạng vân du qua đó, khi đi ngang qua chiếc lều tranh lụp sụp của bà, nhà Sư thấy có ánh hào quang tỏa ra rực rỡ. Vị Cao tăng này lấy làm kinh ngạc, ông nghĩ rằng bên trong chiếc lều tranh thế nào cũng có một vị chân tu đắc đạo. Ông vội vã ghé vào thăm hỏi. Bà lão lấy làm vui mừng khi thấy vị Cao tăng đến thăm, bà quỳ xuống đảnh lễ, mà miệng thì vẫn cứ tiếp tục lẩm bẩm câu thần chú Án Ma Ni Bát Di Xanh. Vị Cao tăng lấy làm ngạc nhiên vìkhông hiểu ánh hào quang rực rỡ mà ông thấy phía bên ngoài phát xuất từ nơi đâu? Ông lần lần hỏi thăm - Chẳng hay nữ thí chủ tu luyện bao nhiêu năm rồi? Ở đây còn có ai khác nữa không?. - Thưa Ngài, ở đây chỉ có một mình tôi sống cô độc hơn ba mươi năm nay. Bà lão đáp. - Thật tội nghiệp, bà ở một mình chắc buồn lắm nhỉ? - Không đâu, tuy chỉ ở một mình nhưng hàng ngày tôi tu hành và tụng Kinh sám hối để kiếp sau có thể hưởng được nhiều phúc đức của kiếp này, nhờ vậy mà tôi không cảm thấy buồn khổ. Nhất là từ lúc được một người hảo tâm chỉ cho cách tu luyện thì tôi càng có can đảm để sống hơn. - Bà đang tu luyện Kinh sách nào vậy? - Ồ, tôi không biết chữ, cho nên chỉ tụng niệm duy nhất một câu thần chú Án Ma Ni Bát Di Xanh. Nhà sư thở dài tiếc nuối - Bà lão ơi, bà đã đọc sai câu thần chú đó rồi, phải phát âm là Án Ma Ni Bát Di Hồng mới đúng. Đến lúc này thì bà lão mới biết là đã đọc sai câu thần chú hơn ba mươi năm. Bà rất đau buồn vì sự nhầm lẫn trọng đại này, như vậy thì công trình 30 năm tụng niệm coi như xe cát biển đông. Tuy nhiên bà cũng cảm ơn sự cải chính của nhà Sư. - Dù sao thì Ngài cũng đã đính chính kịp lúc, bằng không thì tôi còn tiếp tục sai mà không biết cho đến bao giờ mới điều chỉnh cho đúng được. Nhà sư từ giã bà lão để tiếp tục con đường truyền đạo của ông. Bà lão lại tiếp tục công việc tụng niệm của bà mà lần này với câu thần chú mới Án Ma Ni Bát Di Hồng. Thế nhưng tâm tư của bà còn hỗn độn vì sự việc vừa rồi cho nên ý chí của bà không được tập trung. Mỗi câu thần chú của bà đã không còn làm cho những hạt đậu hứng khởi nhảy sang cái chén bên cạnh như lúc trước. Bà lão vừa tụng niệm mà nước mắt cứ tuôn rơi, bà thầm tiếc cho công trình tu luyện hơn ba mươi năm như trôi theo dòng nước vì đã đọc sai câu thần chú. Nhà Sư đi được một đỗi xa, ông ngoái đầu nhìn lại thì thấy căn nhà của bà lão không còn hào quang chói sáng. Bây giờ túp lều tranh hiện hình dột nát mà lại âm u buồn bã. Nhà Sư giật mình và nghĩ rằng chính ông đã làm hại người Phật tử này không còn tập trung được tư tưởng như lúc trước. Ông vội vã trở lại túp lều tranh và nói với bà lão rằng - Lúc nãy ta chỉ đùa với bà thôi, câu thần chú của bà tụng mới thật là đúng. - Nhưng tại sao Sư phụ lại dối gạt tôi như vậy? - Ta muốn thử xem lòng thành kính của bà đối với Tam bảo như thế nào vậy thôi. Từ nay về sau bà cứ tiếp tục tụng niệm y như cũ là phải phép rồi. - Cám ơn Phật, vậy mà con cứ tưởng rằng công lao 30 năm tụng niệm đã trôi theo dòng nước, đa tạ Sư phụ chỉ bày. Sau khi nhà Sư ra đi, bà lão lại tiếp tục công việc tụng niệm, mỗi một câu Án Ma Ni Bát Di Xanh được niệm ra thì tâm hồn bà rộn rã tươi vui và một hạt đậu tự động nhảy sang cái chén bên cạnh. Nhà Sư đi lên đến đỉnh núi, ông ngoái đầu nhìn trở lại thì thấy hào quang phát ra từ túp lều tranh của bà lão đã làm sáng rực cả một góc trời. CLB Hoằng Pháp Trẻ theo
trì tụng là gì